Chuyên gia đề xuất Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay

Để tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đề xuất Chính phủ, Bộ, ngành, NHNN và doanh nghiệp cần ưu tiên thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp tác động cả tổng cung và tổng cầu.

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV
TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV
Nhóm chuyên gia
76 bài viết
Ở kịch bản cơ sở, GDP Việt Nam năm nay sẽ tăng 5,5-6%. Ở kịch bản tích cực hơn, tăng trưởng cả năm có khả năng đạt 6-6,5%.
Tại: Bức tranh kinh tế vĩ mô Việt Nam quý 1 và dự báo cả năm 2023
Phân chia theo khẩu vị rủi ro từ thấp tới cao, kênh tiền gửi tiết kiệm và vàng vẫn được coi là an toàn, nhất là kênh gửi tiết kiệm vẫn hấp dẫn đối với nhiều NĐT trong bối cảnh lãi suất huy động được dự báo sẽ duy trì ở mức cao trong năm 2023.
Tại: Triển vọng các kênh đầu tư năm 2023

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo nghiên cứu về Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay.

1. Khó khăn chính của doanh nghiệp và nguyên nhân

Như Nhóm tác giả đã tổng hợp, doanh nghiệp hiện nay đang gặp phải bốn khó khăn, vướng mắc chính , bao gồm:

- Thứ nhất là vấn đề pháp lý, môi trường kinh doanh: dù đang được quan tâm cải thiện, tháo gỡ dần, khâu thực thi vẫn chậm và yếu, một phần là do quy định pháp luật chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng, nhưng chủ yếu là do nỗi lo sợ trách nhiệm, sợ sai, chưa vì cái chung trong khi năng lực, trình độ của công viên chức còn hạn chế và khâu phối hợp chưa tốt. Đây là thách thức, bất cập lớn nhất, cũng là nguyên nhân chính làm suy giảm niềm tin.

- Thứ hai là vấn đề tài chính , thể hiện qua ba khía cạnh: (i) Một là nghĩa vụ thuế và phí đáo hạn: điều này đã và đang được Quốc hội, Chính phủ nhận diện và hỗ trợ thông qua việc ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ như nêu dưới đây.

(ii) Hai là nghĩa vụ nợ phải trả cho đối tác, khách hàng, nợ đọng lẫn nhau: điều này, cùng với hạn chế về tiếp cận và hấp thụ vốn, vòng quay tiền chậm, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn về dòng tiền, nên tiền gửi của các tổ chức kinh tế (TCKT) trong cung tiền tăng chậm lại kể từ quý 2/2022 và thậm chí giảm kể từ tháng 2/2023, nhưng đang giảm ít hơn gần đây (Hình 1). Từ đó dẫn tới tốc độ tăng cung tiền (so với cùng kỳ) đã liên tục giảm từ tháng 1/2022 đến tháng 3/2023, trước khi đang tăng nhẹ trở lại từ tháng 4/2023.

Chuyên gia đề xuất Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay - Ảnh 1.

(iii) Ba là tiếp cận vốn: đối với kênh tín dụng, theo NHNN, đến ngày 30/6/2023, dư nợ tín dụng tăng 4,73% so với đầu năm, tương đương với cùng kỳ năm 2020 và thấp hơn nhiều cùng kỳ của các năm còn lại trong giai đoạn 2018-2022. Trong đó, dư nợ đối với doanh nghiệp tăng 4,66% so với cuối năm 2022, chiếm 51% dư nợ nền kinh tế. Theo đó, tăng trưởng tín dụng thấp ở hầu hết các lĩnh vực (trừ xây dựng, Hình dưới đây ).

Chuyên gia đề xuất Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh hiện nay - Ảnh 2.

Bốn nguyên nhân chính khiến tín dụng ngân hàng tăng thấp : (i) Bối cảnh chung rủi ro, thách thức hơn, nợ xấu gia tăng khiến các tổ chức tài chính trên thế giới và cả Việt Nam trở nên thận trọng hơn; (ii) khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn của bên vay ở mức thấp hơn [do năng lực tài chính suy giảm, giá trị tài sản bảo đảm (nhất là BĐS) bị giảm; (iii) năng lực hấp thụ vốn, nhu cầu vay vốn của cả doanh nghiệp và hộ gia đình ở mức thấp (do thiếu đơn hàng, hoạt động SXKD bị thu hẹp, e ngại tình trạng trì trệ ở một bộ phận công viên chức)]; (iv) một số lĩnh vực lâu nay dựa nhiều vào vốn ngân hàng hay TPDN đang suy giảm như BĐS, công nghiệp, dịch vụ khác và tiêu dùng, dẫn đến nhu cầu tín dụng của những lĩnh vực này cũng giảm theo ( xem Hình trên ).

Bên cạnh đó, kênh huy động vốn từ thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vẫn bị thu hẹp (hết 7 tháng đầu năm, huy động từ thị trường cổ phiếu chỉ đạt khoảng 12.000 tỷ đồng, giảm gần 60%; từ thị trường TPDN ước đạt 61 nghìn tỷ đồng, giảm 78% so với cùng kỳ năm 2022).

- Thứ ba là khó khăn cả đầu vào lẫn đầu ra: chi phí đầu vào, bao gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí sản xuất, logistics, lãi vay đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, trong khi đầu ra bị thu hẹp, đơn hàng giảm mạnh, một số lĩnh vực chỉ mới có tín hiệu phục hồi đơn hàng từ đầu quý 3/2023.

- Thứ tư là vấn đề lao động . Thị trường lao động thay đổi nhiều sau dịch bệnh, trong khi nhiều doanh nghiệp chưa theo kịp, vẫn xảy ra tình trạng mất cân đối cung - cầu (chỗ thiếu, chỗ thừa), việc làm, thu nhập bị giảm, chưa kể thái độ làm việc đôi khi còn cầm chừng…v.v.

Nguyên nhân gây nên khó khăn đối với doanh nghiệp gồm cả chủ quan và khách quan. Về nguyên nhân khách quan, kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, lạm phát, lãi suất dần hạ nhiệt nhưng đang ở mức cao… khiến nhu cầu thương mại, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu giảm; trong khi đó, ở trong nước, với một nền kinh tế có độ mở lớn, sức chống chịu còn thấp cùng với những khó khăn, bất cập nội tại,… đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam (chưa kể nhiều doanh nghiệp đã yếu đi nhiều sau 3 năm chống chịu với dịch Covid-19).

Nguyên nhân chủ quan đến từ môi trường kinh doanh nội tại và bản thân doanh nghiệp. Nền tảng vĩ mô của chúng ta đang khá tốt, nhưng sức chịu đựng với các cú sốc bên ngoài còn yếu, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, phụ thuộc nhiều vào khối FDI (chiếm hơn 72% kim ngạch xuất khẩu, 58% kim ngạch nhập khẩu năm 2022), công nghiệp phụ trợ yếu khiến DN phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật liệu; lãi suất cho vay mặc dù đã giảm nhưng còn ở mức cao; thủ tục hành chính (gồm cả định giá đất và tiền thuê đất, phòng cháy chữa cháy...v.v.). Trong khi đó, bản thân doanh nghiệp bộc lộ nhiều hạn chế như: (i) năng lực quản trị còn yếu, năng lực dự báo tình hình hạn chế; (ii) năng lực cạnh tranh, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ở mức thấp nên dễ bị thay thế hoặc cắt bỏ trong bối cảnh khó khăn; (iii) nhiều DN phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu (một phần là do công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển) trong khi chưa đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; (iv) nhiều DN sử dụng đòn bẩy tài chính quá cao, đầu tư dàn trải; (iv) thiếu chính sách liên kết giữa các DN trong nước và DN FDI, dẫn đến còn tình trạng vừa thừa - vừa thiếu; (v) chưa tranh thủ, quyết liệt đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và xanh hóa trong thời gian qua.

2. Chính sách của Quốc Hội và Chính phủ, Bộ, ngành và NHNN

Trong bối cảnh đó, Quốc Hội, Chính phủ đã có nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn, khó khăn của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH, dự toán NSNN và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023; Quốc Hội và Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực y tế, các thị trường đất đai, bất động sản, vốn, du lịch, với chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm và chính sách tiền tệ linh hoạt, nới lỏng có kiểm soát, cùng với việc thúc đẩy đầu tư công. Gần đây nhất là Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 15/7/2023 về các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, siết chặt kỷ luật, kỷ cương...v.v.

- Đối với chính sách tài khóa, các chính sách miễn, giảm, giãn tiền thuế, phí và tiền thuê đất năm 2023 với tổng quy mô gần 200 nghìn tỷ đồng, tương ứng với số giảm thu ngân sách thực tế là hơn 82 nghìn tỷ đồng ; chính sách thúc đẩy đầu tư công với tổng quy mô (cả chuyển tiếp từ năm trước) lên đến gần 800 nghìn tỷ đồng, tăng 30% so với năm 2022, tiếp tục là động lực tăng trưởng quan trọng.

- Đối với chính sách tiền tệ: chuyển từ trạng thái “chắc chắn” sang “linh hoạt, nới lỏng” có kiểm soát nhằm hỗ trợ tăng trưởng, NHNN đã 4 lần giảm lãi suất điều hành nhằm định hướng giảm lãi suất huy động và cho vay, góp phần tăng khả năng tiếp cận và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Đến nay, mặt bằng lãi suất bình quân giảm khoảng 1-2% so với đầu năm. Trong thời gian tới, dự báo mặt bằng lãi suất huy động và cho vay sẽ tiếp tục giảm khi việc giảm lãi suất điều hành đã thẩm thấu hơn và theo chỉ đạo chung của Chính phủ (phấn đấu giảm 1,5-2%), cùng với nỗ lực giảm chi phí và cân đối vốn của các TCTD.

Về chính sách tín dụng, NHNN đã điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD năm 2023 với mức giao toàn hệ thống khoảng 14%. Vì vậy, tình trạng “cạn room” như năm 2022 không còn tiếp diễn. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng sẽ phụ thuộc lớn vào khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng và nhu cầu, khả năng hấp thụ vốn của người dân và doanh nghiệp. Dự báo, cả năm 2023, tăng trưởng tín dụng khoảng 12-13%. Cùng với đó, chính sách cho phép cơ cấu lại nợ (không chuyển nhóm nợ) cùng với gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng để cho vay nhà ở xã hội và gói tín dụng 15 nghìn tỷ đồng cho vay lâm, thủy sản với lãi suất thấp hơn bình quân thị trường từ 1-2% cũng đã chính thức được triển khai.

3. Giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của DN và người dân

Để tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, Chính phủ, Bộ, ngành, NHNN và doanh nghiệp cần ưu tiên thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp tác động cả tổng cung và tổng cầu như sau:

Thứ nhất , Chính phủ chỉ đạo tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1/2023; các chỉ thị, nghị quyết, nghị định gần đây của Quốc Hội, Chính phủ như đã nêu trên ; tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế, chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (chứng khoán, TPDN, BĐS, xăng dầu, thanh khoản ngân hàng…) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư, DN và người dân.

Theo đó, cần lưu ý rút ngắn độ trễ chính sách, để chính sách tác động nhanh hơn, hiệu quả hơn. Theo đó, với chính sách tiền tệ, ngoài việc cho phép cơ cấu lại nợ, mua lại trái phiếu, các gói tín dụng; cần tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cả huy động và cho vay; đẩy nhanh cơ cấu lại các TCTD yếu kém nhằm hạn chế cạnh tranh lãi suất không lành mạnh, tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay. Các TCTD xem xét linh hoạt hơn (không hạ chuẩn) điều kiện tín dụng như là một giải pháp tăng khả năng tiếp cận.

Với chính sách tài khóa , cần đẩy nhanh hơn tiến độ thực thi hoàn thuế VAT, các chính sách giãn hoãn thuế, phí, tiền thuê đất, giảm 2% thuế GTGT; sớm xem xét giảm tỷ lệ đóng BHXH cho doanh nghiệp; xem xét chuyển phần còn lại của Chương trình phục hồi (nhất là cấu phần hỗ trợ tiền thuê nhà, hỗ trợ 2% lãi suất…) sang Quỹ phát triển nhà ở xã hội (mới có thể cho vay lãi suất thấp và nguồn vốn mồi bền vững); nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ phát triển DNNVV và các quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV tại các địa phương...v.v.

Đặc biệt, mọi quyết sách đều cần phân giao trách nhiệm, thời hạn cụ thể, có chế tài nghiêm nếu không thực hiện. Những quyết sách này mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ phải là giải quyết được tâm lý sợ sai, đùn đẩy, sợ trách nhiệm. Theo đó, cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, vì cái chung cần sớm được cụ thể hóa và nhất quán, đồng bộ thực hiện. Về lâu dài, chính sách tinh giản bộ máy, nâng cao trách nhiệm và chất lượng thực thi công vụ gắn với cải cách tiền lương là cấp thiết.

Thứ hai, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó cần chú trọng các động lực tăng trưởng: (i) quyết tâm đẩy mạnh giải ngân Chương trình phục hồi 2022-2023 và đầu tư công, bởi theo đánh giá của Viện ĐT&NC BIDV, nếu giải ngân được 95% tổng vốn đầu tư công như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư Nhà nước có thể tăng 30%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,2% và đóng góp 2 điểm % vào tăng trưởng GDP năm 2023; (ii) kích cầu tiêu dùng nội địa, theo tính toán của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, tiêu dùng thực tăng thêm 1 điểm % sẽ giúp GDP tăng thêm 0,2 điểm %; (iii) quan tâm thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế, nhất là Hà Nội và Tp. HCM (hai TP này đóng góp 39% tăng trưởng GDP năm 2019)…v.v.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện phối hợp chính sách hiệu quả (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác) nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá cả hàng hóa thiết yếu và các thị trường tài chính, đất đai, BĐS…; nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng.

Thứ tư, cần có đánh giá đúng và trúng thực trạng tình hình doanh nghiệp; từ đó tháo gỡ kịp thời và chính xác những tồn tại, vướng mắc đã và đang được chỉ ra; quan tâm hỗ trợ DN chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng bằng cách: (i) khai thác tốt hơn các FTAs đã ký kết, thực hiện hiệu quả hơn công tác xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, đa dạng hóa hàng hóa và thị trường xuất khẩu, đầu tư; (ii) tiếp tục đẩy mạnh cải thiện thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, thủ tục hành chính, nhất là bộ máy thực thi công vụ (gồm cả các thủ tục hoàn thuế, phòng cháy chữa cháy, định giá đất và tiền thuê đất...); (iii) triển khai hiệu quả các biện pháp khuyến mại, kích cầu thương mại và du lịch trong nước; (iv) rà soát, cập nhật và điều chỉnh cơ chế, chính sách thu hút FDI theo hướng tập trung vào cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, trong bối cảnh chuẩn bị áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu; (v) quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc, rào cản lớn đối với DN hiện nay như nêu trên; những vụ việc vi phạm về chứng khoán, bất động sản…cũng cần sớm được giải quyết dứt điểm, qua đó củng cố niềm tin của người dân và DN.

Thứ năm, gia tăng nguồn lực cho các TCTD để có thể hỗ trợ nền kinh tế. Theo đó, Quốc Hội, Chính phủ tiếp tục cho phép các NHTM có sở hữu Nhà nước giữ lại lợi nhuận Nhà nước hàng năm để tăng vốn, tạo điều kiện các TCTD dẫn dắt, tham gia tái cơ cấu các TCTD yếu kém, có điều kiện tăng tín dụng, triển khai các gói hỗ trợ và giảm mặt bằng lãi suất cho vay.

Thứ sáu, phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn, theo đó, cần tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường TPDN (ngoài việc xử lý dứt điểm các vụ việc vi phạm thời gian qua; nên khẩn trương có giải pháp thúc đẩy phát hành TPDN ra công chúng, chuẩn bị các điều kiện thực hiện Nghị định 65/2022/NĐ-CP khi Nghị định 08/2023/NĐ-CP hết hiệu lực...); có đề án, chương trình và giải pháp cụ thể về việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam (từ “cận biên” lên “mới nổi”).

Thứ bảy, đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế (nhất là đảm bảo tiến độ và chất lượng sửa đổi luật đất đai, luật nhà ở, luật kinh doanh BĐS, luật các TCTD….); cùng với việc tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách; quan tâm xây dựng thể chế, chính sách cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, để vừa tận dụng cơ hội, vừa hỗ trợ vượt qua khó khăn, thách thức .

Cuối cùng, doanh nghiệp và các tổ chức tài chính cũng cần ưu tiên thực hiện 4 nhóm giải pháp :

- Một là, DN cần quyết tâm cơ cấu lại, giảm chi phí; nâng cao hiệu quả, trách nhiệm sử dụng vốn, minh bạch thông tin (theo đúng kế hoạch, hồ sơ phát hành trái phiếu hoặc vay vốn); giải quyết đúng các cam kết trả nợ (chấp nhận bán tài sản, nếu cần), chủ động có phương án, giải pháp cụ thể đối với TPDN đáo hạn còn lại trong năm 2023 và 2024; xây dựng lộ trình niêm yết, áp dụng xếp hạng tín nhiệm TPDN phù hợp...v.v.

- Hai là, đa dạng hóa nguồn vốn (tránh chỉ phụ thuộc vào một nguồn tín dụng, quan tâm hơn đến cả phương thức thuê tài chính, tài trợ chuỗi cung ứng...); tăng cường kiểm soát rủi ro, nhất là rủi ro tài chính, lãi suất, tỷ giá, lừa đảo trong xuất nhập khẩu (có thể hợp tác với các tổ chức tài chính, thương vụ, hiệp hội)…v.v.

- Ba là, DN cũng cần tính cả bài toán dài hơi hơn như chú trọng chuyển đổi số, ứng dụng CNTT trong phát triển, quản lý, vận hành hoạt động DN; đào tạo, phát triển đội ngũ nhân sự chất lượng cao và đẩy mạnh xanh hóa, phát triển bền vững. Đây cũng là xu thế tất yếu hiện nay và trong thời gian tới.

- Bốn là, đối với các tổ chức tài chính, chủ động thực hiện Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, Thông tư 06 (sửa đổi Thông tư 39) về hoạt động cho vay của các TCTD; rà soát, linh hoạt hơn, phù hợp hơn trong việc áp dụng (không phải là hạ chuẩn) các điều kiện tín dụng (gồm cả tài sản bảo đảm); quyết liệt đơn giản hóa quy trình, thủ tục; đẩy mạnh ứng dụng CNTT và chuyển đổi số (vừa là tiết giảm chi phí, vừa giảm thủ tục giấy tờ và phù hợp với xu thế)….v.v.

Link nội dung: https://thuonghieudoanhnhan.net.vn/chuyen-gia-de-xuat-giai-phap-tong-the-tang-kha-nang-hap-thu-von-cua-doanh-nghiep-va-nguoi-dan-trong-boi-canh-hien-nay-a6451.html