Cô gái luôn nghĩ mình tài giỏi, đi khám mới biết bệnh tâm thần
Cô gái 19 tuổi có nhiều ý tưởng kinh doanh, ấp ủ mở công ty xuyên quốc gia. Khi thấy có biểu hiện bất thường, người thân khuyên bảo nhưng cô không nghe.
Đó là câu chuyện về một nữ bệnh nhân tên A. (19 tuổi) được bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Thị Ái Vân, Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia, Bệnh viện Bạch Mai, chia sẻ trong hội thảo với chủ đề "Rối loạn hưng cảm giai đoạn lưỡng cực: Triệu chứng và nguy cơ".
Triệu chứng ngày càng nặng lên, ảnh hưởng đến công việc nên cô gái được gia đình đưa vào Viện Sức khỏe Tâm thần thăm khám.
Qua thăm khám, bác sĩ nhận thấy bệnh nhân nói nhiều, có triệu chứng của hội chứng hưng cảm, hoang tưởng tự cao.
Kết quả, bác sĩ chẩn đoán cô gái bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Sau đó, cô gái này được cho điều trị nội trú 15 ngày, kết hợp điều trị dùng thuốc và trị liệu tâm lý.
Bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Thị Ái Vân cho biết người mắc rối loạn hưng cảm giai đoạn lưỡng cực có thể do gene di truyền.
Nghiên cứu sinh đôi cũng thấy rằng tỷ lệ giữa các cặp song sinh cùng trứng khoảng 60-80%, trong khi chỉ khoảng 20% ở song sinh khác trứng. Ngoài ra, bệnh còn có nguyên nhân sinh học hoặc biến đổi hình ảnh học của não bộ.
Theo bác sĩ Vân, ngoài các nguyên nhân trên, một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng và tăng nguy cơ mắc rối loạn hưng cảm, cụ thể:
- Căng thẳng trong cuộc sống được cho là yếu tố kích hoạt giai đoạn hưng cảm hoặc trầm cảm ở người có nguy cơ cao. Các sự kiện gây căng thẳng như mất người thân, ly hôn hoặc mất việc có thể làm gia tăng khả năng khởi phát triệu chứng bệnh.
- Rối loạn trong nhịp sinh học cũng là yếu tố tâm lý xã hội có liên quan. Các thay đổi trong nhịp sinh học như thiếu ngủ hoặc làm việc theo ca, có thể dẫn đến mất cân bằng hóa học trong não, làm tăng nguy cơ giai đoạn hưng cảm hoặc trầm cảm.
- Thiếu sự hỗ trợ từ gia đình và bạn bè có thể làm tăng nguy cơ tái phát các giai đoạn bệnh.
Vị chuyên gia cũng thông tin để nhận biết người bị rối loạn hưng cảm cần quan sát những dấu hiệu sau:
Vui vẻ quá mức: Biểu hiện thái độ vui vẻ quá mức với bất kỳ sự vật, hiện tượng nào xảy ra xung quanh.
Ca hát liên tục, họ gây ồn ào và phiền toái cho những người xung quanh, đặc biệt vào giờ làm việc hoặc giờ ngủ.
Giảm nhu cầu ngủ: Biểu hiện thức dậy sớm hơn bình thường vài giờ nhưng không thấy mệt mỏi, trái lại họ tự cảm thấy tràn trề sức sống.
Nói nhiều, nói nhanh: Bệnh nhân thường có áp lực phải nói, nói to, nói nhanh và khi đã nói thì khó làm họ ngừng lại. Họ nói về mọi chủ đề, từ chủ đề này sang ngay chủ đề khác.
Tư duy phi tán: Ý nghĩ của bệnh nhân có thể tăng nhanh về tốc độ nhưng vẫn có mối liên kết với nhau. Khi bùng nổ ý nghĩ của bệnh nhân quá nặng nề, ngôn ngữ của họ trở thành hỗn loạn và mất phù hợp.
Phân tán chú ý: Mất khả năng tập trung chú ý. Họ không tập trung vào một công việc nhất định nếu có các kích thích từ bên ngoài.
Tăng hoạt động ưa thích: Họ có thể mua sắm rất nhiều, vượt xa khả năng chỉ trả. Bệnh nhân có thể tham gia kinh doanh, gây ra các tổn thất về tài chính to lớn cho bản thân, gia đình và cơ quan.
Tự cao: Bệnh nhân đề cao mình quá mức bình thường, có thể đạt đến mức độ hoang tưởng.
Những người mắc rối loạn này, nếu không được thăm khám, chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ ảnh hưởng đến chính bản thân họ như công việc, sức khỏe và gia tăng gánh nặng kinh tế cho gia đình. Do vậy, khi phát hiện người thân có dấu hiệu trên, hãy đưa đến bệnh viện có chuyên khoa tâm thần gần nhất để được thăm khám và điều trị.
Không chủ quan với bệnh viêm màng não do virus ở trẻ
Thời gian gần đây, Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi T.Ư đã tiếp nhận, điều trị cho nhiều trẻ nhập viện mắc viêm màng não, nguyên nhân chủ yếu là do Enterovirus (EV).
Tương tự, tại Khoa Nhi, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã tiếp nhận, điều trị nhiều trẻ em vào viện vì đau đầu, nôn và sốt.
Bác sĩ Ngô Thị Huyền Trang, Khoa Nhi, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội cho biết, viêm màng não do virus xảy ra quanh năm, nhưng thường thấy nhất là vào mùa Hè và mùa Thu. Enterovirus (EV) là một họ bao gồm nhiều loại virus, trong đó có những loại rất nguy hiểm cho con người và có thể gây thành dịch.
Nếu các biện pháp miễn dịch không ngăn chặn được sự nhân lên của virus, virus tái xâm nhập vào máu và gây tổn thương cơ quan đích trong đó có não, màng não. Trên thực tế, các dấu hiệu và triệu chứng của viêm màng não do EV có thể tương tự một số bệnh khác nên có thể bị chẩn đoán nhầm.
Theo bác sĩ Phạm Thị Quế, Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi T.Ư, viêm màng não gặp ở mọi lứa tuổi nhưng nguy cơ cao hơn ở những người suy giảm miễn dịch và trẻ em. Căn nguyên gây viêm màng não virus thường gặp nhất bao gồm: Enterovirus (nhóm Coxsackie hoặc Echovirus), Herpesvirus (HSV1 và 2, VZV, CMV, EBV, HHV6), nhóm Arbovirus (virus viêm não Nhật Bản, virus sốt xuất huyết…).
EV chủ yếu lây qua đường tiêu hóa, nghĩa là người bệnh sẽ đào thải virus qua phân hoặc qua các dịch tiết của đường miệng từ đó lây nhiễm cho trẻ xung quanh. Ngoài ra, EV còn gây ra bệnh lý tay chân miệng. Phần lớn các trường hợp viêm màng não do EV thường tiến triển lành tính, sau quá trình điều trị, trẻ hồi phục hoàn toàn và không để lại di chứng.
Các triệu chứng chính của viêm màng não do virus nói chung và Enterovirus nói riêng có thể xuất hiện đột ngột bao gồm: sốt, ớn lạnh, đau đầu, cổ cứng, buồn nôn hoặc nôn, nhạy cảm với ánh sáng (sợ ánh sáng), chán ăn, mệt mỏi. Đôi khi có các triệu chứng của nhiễm virus như sổ mũi, ho, đau nhức cơ thể hoặc phát ban, trước khi có triệu chứng của viêm màng não...
Các chuyên gia y tế khuyến cáo, hiện bệnh viêm màng não do EV chưa có thuốc đặc trị đặc hiệu và vaccine phòng bệnh. Chính vì vậy, để phòng bệnh cho trẻ, cha mẹ và người chăm sóc cần hướng dẫn trẻ vệ sinh tay sạch với xà phòng trước khi ăn, sau khi ho, hắt xì, đi vệ sinh; thực hiện ăn chín, uống sôi, sử dụng thực phẩm sạch có nguồn gốc rõ ràng.
Cha mẹ vệ sinh đồ chơi chung, giữ môi trường sống sạch sẽ, khử trùng các bề mặt tiếp xúc nhiều như tay nắm cửa, bàn, ghế để ngăn ngừa lây lan virus. Cha mẹ cần cho trẻ đến ngay cơ sở y tế gần nhất khi có dấu hiệu nôn, đau đầu, không đáp ứng với thuốc hạ sốt để được bác sĩ chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Báo động "đỏ" thiếu niên mắc tật khúc xạ
Theo PGS.TS Cung Hồng Sơn, Phó Giám đốc Bệnh viện Mắt Trung ương, Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu người mù và thị lực kém. Gần 30% trong số đó là những người nghèo không có tiền điều trị mang lại ánh sáng. Kết quả điều tra đánh giá nhanh phòng, chống mù lòa có thể phòng tránh được mới nhất cho thấy, hiện nay, ở Việt Nam có khoảng 300.000 người mù.
Việc can thiệp phẫu thuật với chi phí không lớn có thể nhanh chóng mang lại ánh sáng cho người mù. Tuy nhiên, do nhiều bệnh nhân nghèo, không có điều kiện tiếp cận các cơ sở khám chữa bệnh nên vẫn phải chịu cảnh mù lòa.
Thực tế cho thấy, gánh nặng mù lòa ngày càng gia tăng đã trở thành vấn đề xã hội. Tình trạng này sẽ gây trở ngại cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, mù lòa ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, dẫn tới nghèo đói, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế… Theo những nghiên cứu được Bộ Y tế công bố, có trên 80% tỷ lệ người mù ở Việt Nam có thể phòng, chữa được.
PGS.TS Cung Hồng Sơn lý giải, các lý do gây mù chính hiện nay qua điều tra cho thấy, đục thủy tinh thể vẫn là nguyên nhân chủ yếu với tỷ lệ 66,1%, tiếp đó là các bệnh lý đáy mắt, bệnh glôcôm, tật khúc xạ... Với sự phát triển công nghệ nhãn khoa hiện đại thì những bệnh lý nói trên đều có thể phát hiện sớm, chẩn đoán, điều trị hiệu quả.
Mặc dù vậy, số liệu thống kê từ Bệnh viện Mắt Trung ương cũng cho thấy những diễn biến phức tạp, đáng báo động của các tật khúc xạ ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Cụ thể, tỷ lệ mắc tật khúc xạ hiện nay vào khoảng 15 - 20% ở học sinh nông thôn, 30 - 40% ở thành phố.
Nếu tính riêng nhóm trẻ từ 6 - 15 tuổi, cả nước có khoảng gần 15 triệu em, với tỷ lệ mắc các tật khúc xạ khoảng 20%, thì Việt Nam ước tính 3 triệu em mắc tật khúc xạ cần chỉnh kính, trong đó có tới 2/3 bị cận thị.
PGS.TS Phạm Ngọc Đông, Phó Giám đốc phụ trách, quản lý, điều hành Bệnh viện Mắt Trung ương cho biết, theo các nghiên cứu gần nhất, tỷ lệ cận thị ở trẻ ngày càng tăng, đặc biệt là ở các thành phố, thậm chí có lớp học trên 50% học sinh bị cận thị.
Khảo sát về tình trạng mắc tật khúc xạ ở trẻ em trên một số trường tiểu học và trung học cơ sở cho thấy, tại Hà Nội có 51% trẻ mắc tật khúc xạ, trong đó cận thị chiếm 37,5%, viễn thị chiếm khoảng 8% và loạn thị là 5%; tại TPHCM, tỷ lệ trẻ mắc tật khúc xạ lên tới hơn 75%, trong đó, số trẻ bị cận thị chiếm gần 53%.
Tật khúc xạ gây khó khăn cho việc học tập và sinh hoạt. Do không nhìn thấy rõ nên các em khó hiểu bài, kết quả học tập giảm sút. Nếu để lâu không chữa trị có thể gây bệnh "mắt lười" gây suy giảm thị lực, khó điều trị.
Nguyên nhân phức tạp, điều trị đa dạng. Vì thế, khám và cấp kính cho trẻ em mắc tật khúc xạ là một trong những biện pháp can thiệp với chi phí thấp nhất nhưng mang lại hiệu quả cao để giảm tỷ lệ mù lòa gặp nhiều rào cản từ nhận thức, cơ sở vật chất và kinh phí...
Để phòng các tật khúc xạ ở trẻ em, cha mẹ cần lưu ý tăng cường cho trẻ chơi ngoài trời, cho trẻ không gian mở, hạn chế sử dụng các thiết bị có màn hình. Đồng thời, các phụ huynh cần nhắc nhở trẻ tuân thủ nguyên tắc 20 - 20 - 20, nghĩa là cứ sau 20 phút nhìn màn hình thiết bị điện tử, trẻ nghỉ ít nhất 20 giây và tập trung mắt vào một vật cách xa hơn 20 bộ (khoảng 6m).
T.M (tổng hợp)
Link nội dung: https://thuonghieudoanhnhan.net.vn/tin-tuc-doi-song-2310-luon-nghi-minh-tai-gioi-yeu-doi-qua-muc-hay-coi-chung-a79562.html